Bản tin tháng 05/2020 (tiếp theo)

Tinh Thể Quý Hiếm: Orpiment Trong Barite


Hình 6: Vô số tinh thể màu vàng sáng chiếm ưu thế bên trong tinh đám barite 74,31 ct từ Nevada này. Ảnh của Nathan Renfro.

Tinh đám nặng 74,31 ct gồm các trụ barite không màu trong suốt đến trong mờ ở hình 6 có kích thước 37,89 × 20,83 × 15,27 mm. Nó đóng vai trò là khoáng vật chủ chứa vô số tinh thể nhỏ màu vàng và các chùm tỏa tia, cùng nhau tạo thành các cụm màu vàng nhạt. Mẫu khoáng vật barite là từ mỏ Regent ở Bang Rawhide thuộc Hạt Mineral, Nevada. Mỏ Regent được biết là nguồn cung cấp các tinh thể barite chứa bao thể orpiment màu vàng vào giữa những năm 1990. Màu vàng thuần khiết của nhiều bao thể này cho thấy chúng có thể là orpiment. Phân tích qua ảnh quang phổ hiển vi laser Raman đã có thể xác nhận những nghi ngờ của nhóm nghiên cứu. Phân tích huỳnh quang tia X phân tán năng lượng (EDXRF) đã được sử dụng trong nỗ lực kiểm tra cấu trúc hóa học của các bao thể, vì orpiment có chứa asenic là thành phần chính. Phân tích EDXRF cho thấy sự hiện diện của asenic. Dựa trên thành phần hóa học, các tác giả đã xác định rằng các bao thể màu vàng nhìn thấy trong hình 7 thực sự là orpiment, một khoáng vật arsenic sulfide.

 

Hình 7: Kết hợp giữa phân tích Raman và EDXRF đã xác định các bao thể là orpiment, một asenic sulfide màu vàng. Ảnh chụp dưới kính hiển vi của Nathan Renfro; trường quan sát 3,83 mm.

(Theo John I. Koivula, phần Mirco-World, quyển G&G Spring 2019)

 

Khai Thác Đá Cuội Opal Tại Rod Griffin

Tại triển lãm AGTA, Rod Griffin (Rod Griffin Boulder Opals, Silverado, California và Queensland, Australia) nói với tác giả rằng thị trường mua bán của tất cả các loại opal trên thế giới vẫn tiếp tục tăng mạnh, nhưng ngành kinh doanh opal của Úc thì lại đang bị thu hẹp do chi phí, nhiều khó khăn và những thay đổi về quy định khai thác. Ông cũng trích dẫn tình hình lũ lụt gần đây ở Queensland là một thách thức; khai thác opal ở Úc theo cách truyền thống thì khó khăn do thời tiết khắc nghiệt và địa hình gồ ghề. Tại triển lãm năm 2018, nhóm tác giả đã nghe nói rằng việc khai thác đá cuội opal Úc (hình 8) là thấp, hiện chỉ còn dưới 30 người thợ đang khai thác opal ở Queensland.

Ông Griffin bắt đầu khai thác opal vào năm 1960 với một cái búa khoan được cho mượn và một thiết bị chiếu sáng, ở Andamooka, Nam Úc, 600 km (~ 372 dặm) về phía Bắc Adelaide. Phương pháp của ông đã được cải tiến đáng kể trong nhiều thập kỷ kể từ thời điểm đó. Cùng với các thiết bị cơ bản như máy ủi, máy khoan và máy xúc, gần đây ông đã bắt đầu sử dụng máy đo địa vật lý tia gamma để thăm dò và trong năm nay ông sẽ bổ sung các khảo sát bằng máy đo từ kế không người lái và radar dưới mặt đất.

 

Hình 8: Mỏ Elusive ở Koroit, Queensland, được biết là nguồn đá cuội opal với hình ảnh màu sắc hình tia lửa được nhìn thấy ở đây. Viên đá nằm trọn trong hai bàn tay (trọng lượng của nó chưa được xác định). Ảnh của Kevin Schumacher, thuộc sở hữu của Rod Griffin Boulder Opals.

Khai khoáng là công việc ăn sâu trong máu của Griffin. Ông cố của ông làm việc tại các mỏ đồng Burra, Nam Úc vào những năm 1800. Cơ duyên để ông Griffin đến với việc khai thác khoáng sản là từ hoạt động khai thác của ông chú ở phía Bắc của vùng Nam Úc. Chú của ông, người khởi nghiệp với sáu con lạc đà và một cái xủi, sau đó ông đã mua một trong những chiếc máy ủi đầu tiên để sử dụng trong việc khai thác đá opal.

Phát hiện đầu tiên của Griffin, tại Andamooka, là đá cuội chứa opal đen trong các bờ dốc được máy ủi đào xới. Năm 1970, ông khai thác khá nhiều, trong trang trại rộng 17 dặm ở Coober Pedy. Năm 1976, ông đã bán một số đá opal trắng và cuội opal từ vùng Coober Pedy với giá trị là 400 USD (~ 1.800 USD vào thời điểm năm 2019), mua một chiếc Volkswagen và đi khắp nước Mỹ để bán opal. Lần đầu tiên ông trưng bày chúng tại Tucson là vào năm 1977, tại khách sạn Pueblo (nay là Riverpark Inn). Ông nói “Kể từ ngày đó, cả đời làm việc của tôi gắn liền với opal”.

Kể từ đó, Griffin khai thác thêm ở New South Wales – nơi ông là người đầu tiên mang máy cào đến White Cliffs và sử dụng máy khoan trong nông trại Sheepyard tại Lightning Ridge – và Tây Nam Queensland, nơi ông và một người bạn đã tạo được thành công và là nguời đầu tiên sử dụng máy xúc khai thác opal. Các hoạt động hiện tại của ông là ở Tây Nam Queensland, nơi ông sở hữu mỏ Elusive rộng 40 mẫu ở Koroit và trong năm nay ông sẽ có triển khai hoạt động ở phía Tây Quilpie.

Mọi người nghĩ rằng Griffin bị điên khi mua mỏ Elusive vào năm 2013, nó được cho là đã cạn kiệt sau hơn một trăm năm khai thác. Nhưng ông đã tìm thấy opal ở độ sâu 22 feet dưới mặt đất và đã tìm thấy thêm opal ở độ sâu từ 22 đến 25 feet trong vài năm qua. Mỏ này được biết đến là nguồn đá opal có họa tiết hình tia lửa nhìn thấy trong hình 8. Elusive cũng là nơi sản sinh ra các đá cuội opal có hoa văn giống như ngọn lửa (hình 9), mà Griffin nói là duy nhất chỉ có ở mỏ này. Ông nói thêm rằng vì những viên đá được tìm thấy ở độ sâu nông và khu vực này khô ráo, chúng bền và không bị vỡ hay nứt.

 

Hình 9: Đá cuội opal 245 ct này được tìm thấy từ một lộ điểm trong mỏ Elusive. Hình ảnh dạng ngọn lửa chỉ thấy duy nhất tại mỏ Elusive. Ảnh của Kevin Schumacher, thuộc sở hữu của Rod Griffin Boulder Opals.

Vào năm 2017, Griffin đã làm việc với hai nhà địa chất để khám phá mỏ Elusive bằng cách sử dụng mày đo địa vật lý tia gamma, đo các bức xạ hiện diện tự nhiên trong lòng đất để xác định sự hiện diện tiềm năng của opal. Theo Senior và Chadderton, các mạng lưới silica siêu nhỏ tạo ra hiệu ứng đốm màu nhấp nháy của opal chất lượng quý chứa các nguyên tố phóng xạ (“Phóng xạ gamma tự nhiên và ứng dụng trong thăm dò opal chất lượng quý ở Úc”, The Australian Gemmologist, No. 23, 2007, trang 160 – 176). Đo địa vật lý tia gamma của các lỗ khoan và mỏ lộ thiên đã phát hiện phóng xạ khá cao hơn một chút tại vùng xung quanh các mỏ opal và dẫn đến những khám phá mới về opal ở Queensland và New South Wales. Tại Elusive, người ta đã xác định rằng với tốc độ khai thác hiện tại, vẫn còn ít nhất bảy năm để khai thác trữ lượng còn lại. Cuối năm 2017, tại một số khu vực của mỏ mà trước đây đã được khai thác không thành công, việc đo địa vật lý tia gamma đã dẫn đến việc phát hiện 1.230 mẫu đá chứa opal, trong số đó có 30 mẫu chất lượng đá quý.

Griffin cho biết năm nay ông sẽ sử dụng mày đo địa vật lý tia gamma để thăm dò vùng đất rộng 200 dặm ở phía Tây Quilpie; lần đầu tiên ông cũng sẽ sử dụng máy bay không người lái và radar dưới mặt đất. Máy bay không người lái sẽ được gắn máy đo từ kế và bay cách mặt đất vài feet để đo từ tính và xác định vị trí dị thường của đá chứa sắt. Radar dưới mặt đất sẽ xác định thành phần bên dưới mặt đất. Cơ quan nhà nước cho phép quyền được bảo đảm tài sản, và một thỏa thuận sử dụng đất bản địa được đưa ra. Nhưng Griffin cho biết đã có sự chậm trễ trong việc chủ đất thừa nhận một thỏa thuận lâu dài với các thợ mỏ; ông đã thấy nhiều thách thức hơn trong việc đạt được thỏa thuận của tất cả các bên liên quan trong những năm gần đây.

“Có nhiều cách dễ dàng hơn để kiếm tiền”, ông Griffin nói. “Tuy nhiên, tôi thực sự cảm thấy rằng tôi đang ở trên thiên đường vào lúc này, làm những gì tôi muốn làm, bởi vì tôi nghĩ rằng tôi đã tìm thấy sự bình yên của mình trong cuộc sống”.

(Theo Duncan Pay và Erin Hogarth, phần Gem News International, quyển G&G Spring 2019)

 

Bao Thể Sapphire Chứa Lụa Rutile Trong Sapphire Sao

Ở Burma

 

Hình 4: Một tinh thể lạ nằm ở mặt sau của sapphire sao nổi bật dưới ánh sáng phân cực vuông góc, cho thấy các vòng tròn đồng tâm có màu giao thoa khi nhìn dọc theo trục quang của nó (trái). Kiểm tra với ánh sáng sợi quang cho thấy một tập hợp các bao thể rutile dạng hình kim định hướng dọc theo mặt tinh thể của bao thể sapphire (phải). Ảnh chụp dưới kính hiển vi của Xiaodan Jia; trường quan sát 3,83 mm.

Gần đây, phòng giám định GIA ở Hong Kong đã kiểm tra một bao thể sapphire đáng chú ý bên trong một viên sapphire sao Burma. Nó có chỉ số chiết suất tương tự như khoáng vật chủ chứa nó, bao thể sapphire lạ này cho thấy độ nổi cực thấp và gần như vô hình dưới ánh sáng truyền qua. Tuy nhiên, hình dạng bên ngoài của nó trở nên đặc biệt dưới ánh sáng phân cực vuông góc, cho thấy màu giao thoa mạnh (hình 4, trái). Kiểm tra kỹ hơn bằng cách sử dụng ánh sáng sợi quang cho thấy một cụm “lụa” rutile sắp xếp định hướng trong bao thể sapphire này (hình 4, phải). Mặc dù, kim rutile là một bao thể phổ biến trong sapphire Burma, nhưng thật thú vị khi thấy hai nhóm bao thể dạng lụa dày đặc nằm tách biệt trên cả sapphire sao chủ và bao thể sapphire khởi sinh, mỗi nhóm sắp xếp thẳng hàng với mặt tinh thể cơ bản của viên sapphire chủ.

(Lược dịch theo Xiaodan Jia và Mei Mei Sit, phần Micro-World, quyển G&G Spring 2019)